Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong xử lý chất thải công nghiệp
Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong công tác xử lý chất thải nguy hại
Trên cơ sở Hợp tác khoa học công nghệ giữa Viện Hàn lâm Khoa
học và Công nghệ Việt Nam và Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp, PGS.TS.Trịnh Văn
Tuyên, Viện trưởng Viện Công nghệ môi trường cùng nhóm nghiên cứu đã tiến hành
thực hiện đề tài “Nghiên cứu xây dựng Hệ thống xử lý chất thải rắn và lỏng tại
cụm 7 cơ quan y tế tỉnh Đồng Tháp”. Trong hai năm thực hiện (2014-2015), nhóm
nghiên cứu đề tài đã thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận và xây dựng thành
công hệ thống xử lý chất thải lỏng và chất thải rắn y tế nguy hại với chi phí
thấp
Hệ thống xử lý chất thải rắn VHI-18B
Hệ thống xử lý chất thải rắn VHI-18B |
Lò đốt VHI-18B được xây dựng và lắp đặt tại 7 cơ quan y tế tỉnh
Đồng Tháp có công suất 10kg/giờ phù hợp với cơ sở y tế có 200-300 giường bệnh
và có thể nạp 50kg chất thải rắn cho mỗi lần đốt. Lò đốt này được thiết kế trên
cơ sở áp dụng nguyên lý đốt đa vùng, chất thải rắn y tế được đưa vào buồng đốt
sơ cấp đốt và duy trì ở nhiệt độ 500oC - 800oC. Không khí được cấp liên tục cho
quá trình đốt thiêu huỷ rác. Khói từ buồng đốt sơ cấp (sản phẩm cháy chưa hoàn
toàn, chứa nhiều bụi và các chất độc hại) được hoà trộn với không khí theo
nguyên lý vòng xoáy và được đưa vào buồng đốt thứ cấp. Ở buồng đốt thứ cấp, các
sản phẩm cháy chưa hoàn toàn (chứa cả dioxin và furan) tiếp tục được phân huỷ
và đốt cháy ở nhiệt độ cao (900oC - 1200oC) với thời gian lưu cháy đủ lớn (2
giây). Khói từ buồng đốt thứ cấp được dẫn qua hệ thống giảm nhiệt và được xử lý
bằng phương pháp hấp thụ với dung dịch kiềm, đảm bảo khí thải đạt qui chuẩn
QCVN 02-2008/BTNMT.
Do đặc trưng của hệ thống chất thải rắn y tế VHI-18B là đốt đa
vùng ở nhiệt độ cao, xáo trộn mạnh, thời gian lưu dài, nên hiệu suất đốt cháy
rác, thiêu huỷ đioxin và furan cao. Thành lò được xây bằng gạch Sa mốt A, cách
nhiệt bằng bông khoáng chịu nhiệt và vỏ lò làm bằng vật liệu inox SUS 304 nên
khi lò đang đốt ở nhiệt độ cao nhưng kiểm tra bên ngoài vỏ lò vẫn mát. Đặc biệt
hệ thống VHI -18B còn chủ động tạo áp suất âm trong lò bằng ejector nên kể cả
khi lò đang hoạt động vẫn có thể mở cửa nạp mẻ rác mới, ngoài ra lò đốt còn có
chế độ điều khiển tự động chu kỳ đốt, nhiệt độ và các thiết bị kèm theo nên việc
vận hành tương đối đơn giản, an toàn. Sau khi kết thúc một mẻ đốt, lượng tro
trơ còn lại rất ít, được mang đi chôn lấp hoặc đổ thải như chất thải rắn thông
thường. So với các thiết bị ngoại nhập, lò đốt VHI-18B có giá thành thấp hơn
nhiều (chỉ bằng một phần ba hoặc 50% so giá nhập khẩu) và sản phẩm này được bảo
hành miễn phí 12 tháng sau khi chuyển giao.
Hệ thống xử lý chất thải lỏng IET-BF
Hệ thống xử lý chất thải rắn IEB-BF |
Nước thải tại 7 cơ quan y tế tỉnh Đồng Tháp được xử lý qua hệ
thống IET-BF có công suất 130 m3/ngày đêm. Ðây là công nghệ xử lý nước thải bằng
phương pháp lọc sinh học nhỏ giọt cải tiến cấp khí tự nhiên. Lọc sinh học nhỏ
giọt là loại bể lọc sinh học với vật liệu tiếp xúc không ngập nước. Nước thải
được chia thành các màng nhỏ chảy qua vật liệu đệm sinh học và nhờ các vi sinh
vật phân hủy hiếu khí có trên lớp màng vật liệu mà các chất hữu cơ trong nước
thải được loại bỏ. Nước thải sau khi được xử lý sẽ được loại bỏ tách bùn trong
bể lắp; sau đó được khử trùng bằng Natri hypoclorit (phương pháp điện hóa). Chất
khử trùng Natri hypoclorit được điều chế từ nước muối. Qua kết quả kiểm định của
các cơ quan chức năng cho thấy chất lượng nước thải sau khi xử lý qua hệ thống
IET-BF đạt QCVN 28:2010/BTNMT.
Ưu điểm nổi bật của công nghệ IET-BF là sử dụng phương pháp xử lý sinh học diễn ra trong tháp dạng khí có thông khí tự nhiên, cho nên người
sử dụng không phải sục khí bằng máy bơm như các công nghệ khác trước đây thường
gây tiếng ồn, và có thể phát tán vi khuẩn gây bệnh ra môi trường. Hệ thống thiết
bị và vật liệu được sản xuất trong nước, cho nên việc bảo trì, bảo dưỡng hoặc
thay thế chi tiết khi cần được thực hiện một cách thuận lợi; chi phí đầu tư và
vận hành thấp do không phải trang bị máy thổi khí và bơm bùn tuần hoàn như các
công nghệ khác; hệ thống tự hút khí tự nhiên từ đáy tháp nên cả khi bị mất điện
hệ thống vẫn không bị ảnh hưởng; tháp lọc sinh học không tích nước trong tháp
nên trọng lượng nhỏ, có thể thiết kế đặt trên các bể nên không tốn nhiều diện
tích đất đai cho hệ thống; vì công nghệ theo dạng modun nên dễ dàng mở rộng
tăng công suất khi cần thiết.
Hiện nay, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh
Đồng Tháp nói riêng phần lớn các bệnh viện chưa có hệ thống xử lý chất thải, đặc
biệt là các bệnh viện tuyến huyện. Mô hình công nghệ này có thể dễ dàng nhân rộng
tại các địa bàn trên vì hệ thống thiết bị đơn giản, thân thiện với môi trường,
chi phí giá thành phù hợp và có tỷ trọng nội địa cao, chúng ta hoàn toàn làm chủ
công nghệ, tiết kiệm chi phí đầu tư và chi phí vận hành. Kết quả nghiên cứu của
đề tài đã góp phần mở ra một hướng đi mới trong việc lựa chọn và áp dụng công nghệ xử lý chất thải bệnh viện cho phù hợp với điều kiện Việt Nam với chi phí
thấp.
Không có nhận xét nào